LAO ĐỘNG - BẢO HIỂM

Trường hợp nào người lao động bị tai nạn lao động ngoài phạm vi doanh nghiệp vẫn được bồi thường, trợ cấp?
Ngày đăng 07/05/2024 | 22:00  | Lượt xem: 163

Bạn của em bị tại nạn lao động nhưng không được Công ty bồi thường hay trợ cấp. Lý do mà họ đưa ra là bạn em bị tai nạn ngoài cổng Công ty và Công ty đang liên hệ với đơn vị bảo hiểm tai nạn để họ xác định cơ sở chi trả bảo hiểm. Nói cách khác, nghĩa vụ bồi thường đối với bạn em chỉ có thể do đơn vị bảo hiểm chịu trách nhiệm thì có đúng hay không?

Trả lời

Theo khoản 1 Điều 40 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015, người lao động không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động nếu bị tai nạn thuộc một trong các nguyên nhân sau:

“a) Do mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn mà không liên quan đến việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động;

b) Do người lao động cố ý tự hủy hoại sức khỏe của bản thân;

c) Do sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác trái với quy định của pháp luật”.

Quy định nêu trên xác định rõ tai nạn lao động xảy ra “do mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn” và “không liên quan đến việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động” thì người lao động bị tai nạn không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động.

Vụ việc bạn của bạn, nếu không thuộc trường hợp nêu trên, mặc dù tai nạn xảy ra ngoài cơ quan thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi trường hoặc chi trả trợ cấp tai nạn lao động.

Cụ thể, theo khoản 1 Điều 39 của Luật này, “trường hợp người lao động bị tai nạn lao động khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho người lao động theo quy định tại khoản 4 Điều 38 của Luật này”.

Trách nhiệm bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp, khoản 4 Điều 38 của Luật này quy định với mức như sau:

“a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;

b) Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp”.

Trường hợp người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, theo khoản 2 Điều Điều 39 của Luật này, “nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động trợ cấp cho người lao động theo quy định tại khoản 5 Điều 38 của Luật này”.

Đó là, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng.

Mức trợ cấp tai nạn lao động được hướng dẫn tại khoản 3 Điều 4 Thông tư số 28/2021/TT-BLĐTBXH ngày 28/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội như sau:

“a) Ít nhất 12 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động;

b) Ít nhất bằng 0,6 tháng tiền lương đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%; nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% thì tính theo công thức dưới đây hoặc tra theo bảng tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này:

Ttc = Tbt x 0,4

Trong đó:

- Ttc: Mức trợ cấp cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương);

- Tbt: Mức bồi thường cho người bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương)”.

Lưu ý, việc thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người.

Trường hợp người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 39 của Luật này, “nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho người bị tai nạn lao động thấp hơn mức quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này, thì người sử dụng lao động phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền người bị tai nạn lao động hoặc thân nhân của người bị tai nạn lao động nhận được ít nhất bằng mức bồi thường, trợ cấp được quy định tại tại khoản 4 và khoản 5 Điều 38 của Luật này”. 

Tóm lại, nếu thuộc các trường hợp được nhận bồi thường, trợ cấp nêu trên, số tiền bồi thường, trợ cấp trả cho người bị tai nạn lao động ít nhất bằng mức bồi thường, trợ cấp theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm chi trả khi người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm do đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm thực hiện và người sử dụng lao động (nếu bảo hiểm chi trả mức thấp hơn).

Thu Hường