HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Khi nào thì việc mang thai hộ là vi phạm pháp luật?
Ngày đăng 25/09/2024 | 22:07  | Lượt xem: 69

Các chế tài xử lý việc mang thai hộ không đảm bảo theo quy định của pháp luật rất nghiêm khắc. Tuy nhiên, qua các phương tiện thông tin đại chúng vẫn còn có một số nhóm đối tượng nắm bắt được nhu cầu muốn có con của các gia đình

hiếm muộn, người có vấn đề về sinh lý đã tổ chức đường dây mang thai hộ để kiếm lời. Đề nghị cho biết quy định của pháp luật về mang thai hộ? Trường hợp mang thai hộ nào sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật? 

Trả lời:

- Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các hành vi bị cấm trong hôn nhân và gia đình như sau:

2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

- Khoản 22, khoản 23 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

22. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.

23.Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.

- Điều 60 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó quy định về hành vi vi phạm quy định về sinh con như sau:

“1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, sinh sản vô tính, mang thai hộ vì mục đích thương mại.

2. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này”.

- Khoản 4 Điều 4 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định mức phạt tiền như sau: Mức phạt tiền quy định tại các Chương II, III, IV, V, VI và VII Nghị định này được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, trừ các điều quy định tại khoản 5 Điều này. Trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

- Điều 187 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau:

“1. Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đối với 02 người trở lên;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Theo quy định của pháp luật thì việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cần phải đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật, còn việc mang thai hộ vì mục đích thương mại là một trong các hành vi bị pháp luật cấm. Người nào có hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại thì người đó có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, còn đối với tổ chức sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra, bắt buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp do hành vi đẻ thuê thu được (Điều 60 Nghị định 82/2020/NĐ-CP).  Đồng thời, người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 187 Bộ luật hình sự 2015 (có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm tùy theo mức độ thực hiện hành vi).\,

Như Quỳnh