Nghiên cứu, trao đổi

Phân tích các quy định về trung gian thương mại
Ngày đăng 30/08/2022 | 14:14  | Lượt xem: 3517

Trên thế giới, hoạt động thương mại qua trung gian đã xuất hiện từ lâu, do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân. Ở mỗi nước pháp luật lại có những quy định khác nhau về hoạt động này.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường là sự phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ với nhu cầu mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ngày càng cao, số lượng lớn do đó nó đòi hỏi mạng lưới thương nhân nhiều hơn và chuyên nghiệp hơn. Từ thực tế đó, bên cạnh phương thức giao dịch trực tiếp thì xuất hiện phương thức giao dịch gián tiếp. Đó là giao dịch qua trung gian thương mại. Vậy trung gian thương mại là gì? Pháp luật quy định như thế nào về hoạt động này? Bài viết dưới đây tác giả sẽ đi làm rõ với quý bạn đọc một số vấn đề về hoạt động trung gian thương mại.

1. Khái niệm về trung gian thương mại

Trên thế giới, hoạt động thương mại qua trung gian đã xuất hiện từ lâu, do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân. Ở mỗi nước pháp luật lại có những quy định khác nhau về hoạt động này. Các nước theo truyền thống pháp luật Anh - Mĩ không có quy định riêng điều chỉnh các dịch vụ trung gian trong hoạt động thương mại. Tất cả các giao dịch qua trung gian bất kể nhằm mục đích gì cũng được quy định chung trong “Law of agency” (luật đại diện). Luật đại diện của Anh - Mĩ dùng thuật ngữ bên đại diện (agent) để chỉ những người thực hiện một hoặc một số hành vi theo sự ủy quyền của bên ủy quyền (Principal) với danh nghĩa của bên ủy quyền hay với danh nghĩa của chính mình vì lợi ích của bên ủy quyền. Các nước theo truyền thống luật châu Âu lục địa như: Pháp, Đức, Bỉ, Nhật Bản bên cạnh Bộ luật dân sự có ban hành bộ luật thương mại, trong đó quy định rất cụ thể về từng loại hoạt động thương mại qua trung gian. Đó là các hoạt động: đại diện thương mại; môi giới thương mại và ủy thác thương mại.

Việt Nam, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, do nhu cầu của việc trao đổi hàng hoá dịch vụ, các hoạt động trung gian thương mại đã xuất hiện và cần phải có pháp luật điều chỉnh các hoạt động này. Do đó ngày 10/5/1997 Quốc hội thông qua Luật Thương mại. Luật Thương mại năm 1997 chỉ điều chỉnh các hành vi thương mại của thương nhân, đó là những hành vi mua bán hàng hoá, cung ứng các dịch vụ thương mại gắn với việc mua bán hàng hoá trong đó có các dịch vụ đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá, đại lý mua bán hàng hoá. Tuy nhiên Luật Thương mại năm 1997 chưa đưa ra khái niệm hoạt động trung gian thương mại. Khắc phục những tồn tại và bất cập của Luật Thương mại năm 1997, ngày 14/6/2005 Quốc hội đã thông qua Luật Thương mại mới, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra định nghĩa hoạt động trung gian thương mại và có nhiều điểm sửa đổi, bổ sung, quy định mới về các hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá, đại lý thương mại so với Luật Thương mại năm 1997 cụ thể tại tại khoản 11 điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại”.

Từ quy định trên có thế rằng, giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ) và việc xác định các điều kiện giao dịch phải thông qua một người trung gian. Trong phương thức giao dịch qua trung gian sẽ xuất hiện một chủ thể thứ ba, người này đứng ở vị trí độc lập với hai bên còn lại trong quan hệ và là người thực hiện dịch vụ theo sự ủy quyền và vì lợi ích của người khác để hưởng thù lao. Phương thức giao dịch qua trung gian được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực phân phối thương mại và đối với nhà sản xuất thì thông qua bên trung gian giúp họ tiếp cận với khách hàng, với người tiêu dùng một cách nhanh chóng hơn.

2. Đặc điểm của hoạt động trung gian thương mại

Từ khái niệm về hoạt động trung gian thương mại được quy định tại khoản 11 điều 3 Luật Thương mại năm 2005 chúng ta thấy rằng hoạt động trung gian thương mại có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, về mặt chủ thể thực hiện hoạt động trung gian: Để thực hiện các hoạt động trung gian thương mại, bên trung gian (bên đại diện, bên môi giới, bên nhận ủy thác, bên đại lý) phải là thương nhân theo quy định tại Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Đối với một số hoạt động trung gian thương mại như: ủy thác mua bán hàng hoá, ngoài điều kiện là thương nhân bên trung gian còn phải có điều kiện khác như phải là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được ủy thác (Điều 156 Luật Thương mại năm 2005).

Thứ hai, về tư cách pháp lý của bên trung gian: Bên trung gian phái có tư cách pháp lý độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Trong quan hệ với bên thuê dịch vụ (bên ủy quyền) và bên thứ ba, bên trung gian thực hiện các hoạt động thương mại với tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập và tự do. Bên trung gian là bên được ủy quyền cung ứng một dịch vụ thương mại cho bên ủy quyền chứ không phải là người làm công ăn lương. Điều này thể hiện qua việc bên trung gian phải trụ sở riêng, có tư cách pháp lý độc lập, tự định đoạt thời gian làm việc, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Điều này giúp ta phân biệt bên trung gian trong hoạt động thương mại với các chi nhánh, vãn phòng đại diện do thương nhân lập ra để thực hiện hoạt động kinh doanh của thương nhân và những người lao động làm thuê cho thương nhân. Các chủ thể nói trên không có tư cách pháp lý độc lập và chỉ được thực hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn theo quy định trong nội bộ của thương nhân đó.

Thứ ba, mục đích hoạt động của bên trung gian: hoạt động trung gian thương mại là loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện theo phương thức giao dịch qua trung gian. Bên trung gian được bên thuê dịch vụ trao quyền tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao dịch thương mại với bên thứ ba vì lợi ích của bên thuê dịch vụ để hưởng thù lao. Trong hoạt động trung gian thương mại, bên trung gian (bên đại diện, bên môi giới, bên nhận ủy thác, bên đại lý) có vai trò làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Bên trung gian thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại với bên thứ ba không vì lợi ích của bản thân mình mà vì lợi ích của bên thuê dịch vụ (bên ủy quyền). Tuy nhiên, bên trung gian (bên được ủy quyền) sẽ được hưởng thù lao khi hoàn thành nhiệm vụ bên ủy quyền giao phó.

Thứ tư, về số lượng các bên tham gia: Khác với những hoạt động thương mại thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp, chỉ có sự tham gia của hai bên, hoạt động trung gian thương mại có sự tham gia của ba bên: Bên ủy quyền (bên thuê dịch vụ, gồm một hoặc một số tổ chức, cá nhân kinh doanh), bên thực hiện dịch vụ (bên được ủy quyền) và bên thứ ba (gồm một hoặc một sô tổ chức, cá nhân kinh doanh). Trong các hoạt động trung gian thương mại này, bên được thuê làm dịch vụ là người trung gian nhận sự ủy quyền của bên thuê dịch vụ và thay mặt bên thuê dịch vụ thực hiện các hoạt động thương mại với bên (hoặc các bên) thứ ba. Bên thuê dịch vụ sẽ ủy quyền cho bên thực hiện dịch vụ thay mặt mình mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại với bên thứ ba (bên này có thể do bên ủy quyền chỉ định trước hoặc do bên được ủy quyền tìm kiếm theo yêu cầu của bên ủy quyền), theo đó bên được ủy quyền sẽ có nhiệm vụ đàm phán giao dịch với bên thứ ba để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên ủy quyền theo yêu cầu của bên ủy quyền. Khi giao dịch với bên thứ ba, thương nhân trung gian có thể sử dụng danh nghĩa của mình hoặc danh nghĩa của bên thuê dịch vụ. Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, trong trường hợp thực hiện hoạt động đại lý thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá hoặc môi giới thương mại, thương nhân trung gian sử dụng danh nghĩa của chính mình, còn khi thực hiện hoạt động đại diện cho thương nhân thì họ lại nhân danh bên ủy quyền để giao dịch với bên thứ ba. Điều này có ý nghĩa quan ữọng đối với việc xác định các nghĩa vụ phát sinh trong giao dịch đối với bên thứ ba sẽ thuộc về ai.

Thứ tư, quan hệ trong hoạt động trung gian thương mại:  hoạt động trung gian thương mại song song tồn tại hai nhóm quan hệ:

- Quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian thực hiện dịch vụ;

- Quan hệ giữa bên thuê dịch vụ, bên trung gian thực hiện dịch vụ với bên thứ ba. Các quan hệ trên đều phát sinh trên cơ sở hợp đồng.

Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động trung gian thương mại là hoạt động có sự tham gia của bên thứ ba. Theo đó bên thuê dịch vụ sẽ trao cho bên trung gian quyền tham gia thiết lập, thực hiện các giao dịch thương mại. Do đó, để thực hiện hoạt động trung gian thương mại, trước tiên bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ của bên trung gian và bên cung ứng dịch vụ trung gian phải thiết lập được quan hệ với nhau. Quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian thực hiện dịch vụ đuợc thiết lập trên cơ sở tự do, thống nhất ý chí của các bên và hình thức của nó là hợp đồng. Mặt khác, hoạt động trung gian thương mại sẽ không thể thực hiện được nếu chỉ tồn tại quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian. Để thực hiện hoạt động này, bên trung gian phải tham gia giao dịch với bên thứ ba để hoàn thành yêu cầu mà bên thuê dịch vụ giao cho. Khi tham gia giao dịch với bên thứ ba, bên trung gian có thể làm việc với nhiều tư cách. Họ có thể tạo ra một giao dịch thương mại nhân danh chính mình hoặc nhân danh bên thuê dịch vụ (đại lý thương mai, ủy thác mua bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân) nhưng cũng có thể họ chỉ thực hiện nhiệm vụ giới thiệu bên thứ ba với bên thuê dịch vụ mà không có quan hệ gì với bên thứ ba (môi giới thương mại). Trong trường hợp bên trung gian thực hiện các hoạt động thương mại với bên thứ ba nhân danh bên thuê dịch vụ (trong phạm vi được ủy quyền) sẽ làm phát sinh quan hệ hợp đồng giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Trong trường hợp bên trung gian nhân danh chính mình thực hiện các hoạt động thương mại với bên thứ ba thì quan hệ hợp đồng sẽ phát sinh giữa bên trung gian với bên thứ ba. Tùy thuộc vào đối tượng của hợp đồng giao kết với bên thứ ba mà các hợp đồng đó có thể là hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc hợp đồng dịch vụ.

Thứ tư, về hình thức hợp đồng của hoạt động trung gian thương mai: Các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại đều phát sinh trên cơ sở hợp đồng như: hợp đồng đại diện cho thương nhân; hợp đồng môi giới thương mại; hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá; hợp đồng đại lý thương mại. Các hợp đồng này đều cố tính chất là hợp đồng song vụ, ưng thuận và có tính đền bù. Hình thức của các hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá, hợp đồng đại lý thương mại phải được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương với văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Còn đối với hình thức hợp đồng của hoạt động môi giới thương mại thì pháp luật thì Luật Thương mại năm 2005 không quy định cụ thể hình thức hợp đồng của của hoạt động này.

3. Các hình thức trung gian thương mại

Bên cạnh phương thức giao dịch trực tiếp với khách hàng, hiện nay các thương nhân rất quan tâm đến các hình thức trung gian thương mại để tiết kiệm thời gian, chi phí và tăng cường sự hiện diện của doanh nghiệp trên thị trường. Các hình thức trung gian thương mại bao gồm:

3.1. Đại diện cho thương nhân:

Hoạt động đại diện cho thương nhân được Luật Thương mại năm 2005 quy định tại Mục 1 Chương V gồm 09 điều từ điều 141 đến điều 149. Theo đó đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện (điều 141).

* Đặc điểm:

- Chủ thể gồm: Bên giao đại diện và bên đại diện với điều kiện: Cả hai bên đều phải là thương nhân.

- Về quan hệ pháp lý: Trong quan hệ đại diện, người làm đại diện phải giao dịch với bên thứ ba trên danh nghĩa của bên giao đại diện và phải hành động theo sự hướng dẫn của bên giao đại diện.

- Phạm vi đại diện: Các bên có thể thoả thuận về phạm vi của việc đại diện; bên đại diện có thể thực hiện một phần hoặc toàn bộ các hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện.

- Hình thức pháp lý của hợp đồng: hoạt động đại diện cho thương nhân thông qua Hợp đồng đại diện cho thương nhân. Hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị tương đương.

 

3.2.  Môi giới thương mại:

Hoạt động môi giới thương mại được Luật Thương mại năm 2005 quy định tại Mục 2 Chương V gồm 05 điều từ điều 150 đến điều 154. Theo đó hoạt động môi giới thương mại là hoạt động thương mại mà theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán và giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới (điều 150). Luật Thương mại năm 2005 không quy định cụ thể hình hợp đồng của hoạt môi giới thương mại.

* Đặc điểm

- Chủ thể: Bên môi giới và bên được môi giới với điều kiện: Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, bên môi giới bắt buộc phải là thương nhân và phải có đăng kí kinh doanh ngành nghề môi giới thương mại.

- Về quan hệ pháp lý: Trong quan hệ môi giới, bên làm môi giới làm trung gian giữa bên mua và bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trong việc đàm phán và giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao

- Phạm vi môi giới: Phạm vi môi giới thương mại khá rộng, bao gồm tất cả các hàng hóa, dịch vụ mà pháp luật cho phép

- Hình thức pháp lí của hợp đồng: Hoạt đồng môi giới được thực hiện thông qua hợp đồng môi giới. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 2005 không quy định cụ thể hình hợp đồng của hoạt môi giới thương mại.

3.3. Ủy thác mua bán hàng hóa:

Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa được Luật Thương mại năm 2005 quy định tại Mục 3 Chương V gồm 11 điều từ điều 155 đến điều 165. Theo đó hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại và theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác theo quy định (điều 155). Các bên trong ủy thác thực hiện trong phạm vi ủy thác, tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của nhau.

* Đặc điểm:

- Về mặt chủ thể: Bên ủy thác và bên nhận ủy thác với điều kiện: Bên ủy thác có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân, nhưng bên nhận ủy thác bắt buộc phải là thương nhân.

- Về quan hệ pháp lý: Bên nhận ủy thác sử dụng danh nghĩa của chính bên nhận ủy thác để mua hoặc bán hàng hóa thay cho bên ủy thác. Đồng thời, bên ủy thác không được quyền ủy thác lại cho bên thứ ba thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa nếu như không có sự chấp thuận bằng văn bản của bên ủy thác.

- Về phạm vi hoạt động: Bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hóa trong phạm vi ủy thác của bên ủy thác.

- Hình thức pháp lý của hợp đồng: Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa bắt buộc phải được lập bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị tương đương.

3.4. Đại lý thương mại:     

Hoạt động đại lý thương mại được Luật Thương mại năm 2005 quy định tại Mục 4 Chương V gồm 12 điều từ điều 166 đến điều 177. Theo đó, đại lý thương mại là hoạt động thương mại mà theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao theo quy định (điều 166).

* Đặc điểm

- Về mặt chủ thể: Bên giao đại lý và bên đại lý với điều kiện: Cả hai bên đều phải là thương nhân.

- Về quan hệ pháp lý: Trong quan hệ thương mại này, bên đại lý sẽ nhân danh chính mình để giao dịch với khách hàng.

- Về phạm vi hoạt động của đại lý: Bên đại lý sẽ theo thỏa thuận, thực hiện bán hàng cho bên giao đại lý hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ giao đại lý cho khách hàng.

- Hình thức pháp lý của hợp đồng: Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

- Đại lý thương mại gồm các hình thức sau:

+ Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý.

+ Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.

+ Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.

+ Ngoài ra còn có các hình thức đại lý khác mà các bên thỏa thuận.

4. Vai trò của hoạt động trung gian thương mại trong nền kinh tế

Như chúng ta đã biết thi Việc sử dụng các dịch vụ trung gian thương mại có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thương nhân cũng như nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và bởi những tác dụng như sau:

Thứ nhất, các hoạt động trung gian thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá và từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.

Hoạt động trung gian thương mại phát triển làm cho khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường tăng lên, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong một nước cũng như giữa các nước với nhau được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế của đất nước. Hơn nữa thông qua các trung gian thương mại mà người sản xuất có thể thiết lập một hệ thống phân phối hàng hoá đa dạng. Mặt khác, các trung gian thương mại giúp thương nhân nắm bắt những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường trong nước, thị trường ngoài nước một cách kịp thời. Từ đó, đánh giá chính xác nhu cầu thị trường và tiến hành các hoạt động kinh doanh theo nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở đó mà mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ hai, hoạt động trung gian thương mại mang lại hiệu quả lớn cho các thương nhân trong quá trình tổ chức mạng lưới phân phối, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Việc liên kết với các trung gian thương mại thông qua các hợp đồng đem lại cho nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ một số lợi ích quan trọng như:

- Giúp cho nhà sản xuất chuyên tâm vào việc sản xuất. Bởi, để đảm bảo hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, các khâu trong quá trình sản xuất - phân phối cần phải được chuyên môn hoá lao động. Công việc của các nhà sản xuất là tạo ra sản phẩm và nếu họ càng dành nhiều thời gian và tâm huyết cho quá trình sản xuất thì họ càng giỏi và chuyên nghiệp. Nêu nhà sản xuất phải dành thời gian và các nguồn lực cho cả việc sản xuất và phân phối, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá thì hai việc này đều sẽ bị ảnh hưởng và không đạt hiệu quả cao. Do đó, nếu nhà sản xuất dành nhiều thời gian và năng lực vào sản xuất, các trung gian thương mại tập trung vào công việc phân phối, lưu thông sản phẩm, hàng hoá, thì hoạt động kinh doanh của cả hai bên đều đạt được hiệu quả.

- Các trung gian thương mại là chuyên gia trong lĩnh vực phân phối, tiêu thụ nên hơn ai hết họ biết tất cả những gì cần thiết cho công việc của mình. Họ có thể tư vấn cho nhà sản xuất, nhà đầu tư những điều tốt nhất trong lĩnh vực phân phối hàng hoá.

- Người trung gian là những chuyên gia thường xuyên thực hiện công việc liên quan đến phân phối nên họ biết cách tốt nhất và rẻ nhất để làm điều này. Ngoài ra, do họ thực hiện phân phối hàng hoá, dịch vụ cho nhiều nhà sản xuất nên chi phí sẽ không tốn kém bằng từng nhà sản xuất thực hiện.

- Các trung gian thương mại là những chủ thể thực hiện dịch vụ trung gian một cách chuyên nghiệp nên họ thường hiểu biết nắm vững tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương và các đối tác. Do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán, hạn chế được rủi ro và nhiều khi mua, bán được hàng hoá, cung ứng dịch vụ với giá cả có lợi hơn cho bên thuê dịch vụ của họ.

- Thương nhân trung gian thường thực hiện dịch vụ trung gian cho nhiều thương nhân nên có kiến thức về các mối quan hệ khách hàng tiềm năng. Vì thế, thông qua các thương nhân trung gian, hàng hoá, dịch vụ của bên thuê dịch vụ trung gian thường được phân phối nhanh chóng và hiệu quả hơn.

- Việc phân phối sản phẩm qua các trung gian thương mại được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng (thường là có xác định thời hạn). Do đó, nếu tại địa bàn nào đó kinh doanh không thuận lợi, thương nhân có thể rút nhanh khỏi thị trường mà không phải lo giải quyết các tồn tại như thanh lý cơ sở và phương tiện không cần dùng, giải quyết số lao động dư thừa do ngừng hoạt động tại thị trường đó. Vì vậy, phương thức kinh doanh qua trung gian thương mại giúp thương nhân mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh tại một địa bàn nào đó một cách linh hoạt, nhanh chóng.

Hoạt động trung gian thương mại với 04 hình thức đang được các thương nhân sử dụng ngày càng phố biến trong điều kiện toàn cầu hóa với sự phát triển nhanh và mạnh của nhu cầu giao dịch trong nước cũng như quốc tế. Các hình thức trung gian thương mại đã đóng vai trò là những yếu tố tạo thuận lợi cho các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các thương nhân trên thị trường. Với những phân tích ở trên, đã làm rõ phần nào những phân vân của quý độc giả cũng như thương nhân đối với từng hoạt động trung gian thương mại và lựa chọn hình thức trung gian thương mại phù hợp với điều kiện của mình./.

Trương Hiển