Nghiên cứu, trao đổi
Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân ,hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất.
Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân ,hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay thì hợp đồng dân sự càng có ý nghĩa. Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của hợp đồng dân sự, pháp luật Việt Nam sớm đã có những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Cụ thể là từ Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, Bộ Luật Dân sự năm 1995, Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã có những quy định cụ thể điều chỉnh về hợp đồng dân sự, và cho đến nay Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng dân sự được xem xét một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã tạo ra hành lang pháp lý cho giao dịch dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp, và tư pháp của nhà làm luật. Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện, cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định trong các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Tuy nhiên trên thực tế, khi các bên tham gia giao kết hợp đồng không phải hợp đồng nào cũng có hiệu lực theo quy định của pháp luật mà có những hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ hay một phần kèm theo đó là những hậu quả pháp lý. Vậy những hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu là gì? Bài viết này tác giả sẽ đi làm rõ một số vấn đề về hậu quả pháp lý và cách xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu.
1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu và các trường hợp vô hiệu của hợp đồng
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Theo điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định hợp đồng có nội dung cụ thể như sau: Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên liên quan đến việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Qua khái niệm trên, ta có thể hiểu bản chất của một hợp đồng dân sự được cấu tạo bởi 2 yếu tố: Sự thỏa thuận của các bên tham gia giao kết hợp đồng và sự ràng buộc pháp lý giữa họ. Đối với quy định về hợp đồng vô hiệu, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan của Việt Nam không có một khái niệm cụ thể nào về hợp đồng vô hiệu. Hiểu một cách đơn giản thì hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng dân sự là một dạng của các giao dịch dân sự và tại Điều 407 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định nội dung sau đây: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự thì các giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 thì sẽ bị coi là vô hiệu, cụ thể các giao dịch dân sự muốn có hiệu lực phải có đủ các điều kiện cụ thể như sau: Các chủ thể phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Các chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm vào các điều cấm của luật và không được trái đạo đức xã hội.
Thông qua những phân tích và quy định cụ thể nêu trên, ta nhận thấy rằng, hợp đồng dân sự vô hiệu là một loại hợp đồng khi các bên giao kết và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, hoặc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan nên không có giá trị pháp lý, không phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên.
Hiên nay, các loại hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần:
Hợp đồng vô hiệu toàn bộ: Hợp đồng vô hiệu toàn bộ là loại hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu, hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng đó.
Hợp đồng vô hiệu một phần: Hợp đồng vô hiệu một phần là một trong những loại hợp đồng được xác lập mà một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng đó.
Đối với hợp đồng vô hiệu một phần, phần vô hiệu sẽ không có giá trị pháp lý. Nhưng, cần lưu ý rằng, ngoài phần vô hiệu không được áp dụng thì các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành trên thực tiễn, nên các bên tham gia giao dịch vẫn phải tiếp tục thi hành trong phạm vi phạm hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
1.2. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân sự
Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân sự được quy định từ điều 123 đến điều 129 Bộ Luật Dân sự năm 2015
Thứ nhất, hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (điều 123 Bộ Luật Dân sự năm 2015):Hợp đồng dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. (Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng).
Thứ hai, hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo (điều 124 Bộ Luật Dân sự năm 2015): Khi các bên xác lập hợp đồng dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng dân sự khác thì hợp đồng dân sự giả tạo vô hiệu, còn hợp đồng dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan. Trường hợp xác lập hợp đồng dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì hợp đồng dân sự đó vô hiệu.
Thứ ba, hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (điều 125 Bộ Luật Dân sự năm 2015): Khi hợp đồng dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Hợp đồng dân sự của những người trên không bị vô hiệu trong trường hợp sau đây: Hợp đồng dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó; Hợp đồng dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ; Hợp đồng dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
Thứ tư, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (điều 126 Bộ Luật Dân sự năm 2015): Trường hợp hợp đồng dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Hợp đồng dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập hợp đồng dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập hợp đồng dân sự vẫn đạt được.
Thứ năm, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (điều 127 Bộ Luật Dân sự năm 2015): Khi một bên tham gia hợp đồng dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự đó là vô hiệu. (Lừa dối trong hợp đồng dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Đe dọa, cưỡng ép trong hợp đồng dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện hợp đồng dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình).
Thứ sáu, hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (điều 128 Bộ Luật Dân sự năm 2015): Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự đó là vô hiệu.
Thứ bảy, hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (điều 129 Bộ Luật Dân sự năm 2015): Hợp đồng dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: Hợp đồng dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Hợp đồng dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Thứ tám, hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được: Ngay từ khi giao kết, nếu hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu theo Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong trường hợp này, trách nhiệm của các bên được xác định như sau: Nếu khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. Nếu hợp đồng có nhiều đối tượng thì chỉ vô hiệu phần đối tượng không thể thực hiện được, những phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu
2.1.Khái niệm về hậu quả pháp lý
Hậu quả pháp lý được hiểu là những kết cục tất yếu sẽ xảy ra đối với những cá nhân, tổ chức phải gánh chịu nếu những cá nhân, tổ chức đó có những hành vi vi phạm pháp luật. Hậu quả pháp lý là sự kiện bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải chịu, tuỳ thuộc vào mức độ, tính chất, phạm vi của hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân đó. Hậu quả pháp lý mà các tổ chức, cá nhân có thể sẽ phải gánh chịu đó là: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật.
2. 2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu:
Hợp đồng là một loại văn bản được dùng rất phổ biến hiện nay, về bản chất hợp đồng là sự thoả thuận của các bên khi các bên xác lập, thay đổi, chấm dứt giao dịch dân sự. Tuy nhiên, những sự thoả thuận của các bên không được trái với những quy định của pháp luật, quy phạm đạo đức, nếu không sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định.
Trong khoa học pháp lý, hậu quả dùng để chỉ những hành vi, sự kiện gây ra bất lợi cho cá nhân hay pháp nhân. Người gây ra hậu quả phải chịu hậu quả pháp lý nhất định nhưng phải được các nhà làm luật xác định hay dữ liệu mới làm phát sinh hậu quả pháp lý. Một hành trái pháp luật có thể gánh chịu hậu quả pháp lý của một luật hoặc nhiều luật khác nhau.
Ví dụ như hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng thì hậu quả hợp đồng vị tuyên bố vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự nhưng nếu hành vi lửa đảo này đủ yếu tố cấu thành tọi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ Luật Hình sự thì hậu quả vừa xử lý theo pháp luật hình sự vừa xử lý theo pháp luật dân sự.
Mặc dù thuật ngữ hậu quả pháp lý được sử dụng rất rộng rãi nhưng chưa có một quy định pháp luật nào đưa ra khái niệm cụ thể về hậu quả pháp lý mà chỉ đi sâu vào nội dung của hậu quả pháp lý. Như đã biết, hợp đồng là căn cứ pháp lý, là cơ sở để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng bị vô hiệu có thể vì nhiều lý do khác nhau, tức là do vi phạm các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực khác nhau. Mỗi loại điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có đặc trưng riêng. Chính vì vậy, về nguyên tắc, bên cạnh hậu quả pháp lý chung khi hợp đồng vô hiệu (hợp đồng không có hiệu lực, các bên trả cho nhau những gì đã nhận) còn có những hậu quả pháp lý đặc thù cho loại hợp đồng đó như phải bồi thường thiệt hại và đặc thù này được thể hiện trong các quy định của pháp luật. Có thể thấy rằng, hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu do bị lừa đối không hoàn toàn giống với hậu quả pháp lý khi hợp đồng dân sự vô hiệu vì các lý do khác. Trong khi đó, Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Bộ Luật Dân sự năm 2015 đều quy định hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu chung cho tất cả các trường hợp. Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó ký kết trái với quy định của pháp luật. Khi các nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với quy định của pháp luật thì không có hiệu lực thực hiện. Có thể thấy rằng, hợp đồng cũng là một loại giao dịch và trong điều kiện luật không quy định riêng về hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu, do đó hợp đồng tuân theo các quy định chung về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Vì thê, điều 131 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giáo dịch dân sự vô hiệu: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.
Như vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2, điều 131 Bộ Luật Dấn ự năm 2015 thì khi hợp đồng vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Điều đó có nghĩa là nếu việc ký kết hợp đồng nhằm phát sính quyền và nghĩa vụ thì khi hợp đồng vô hiệu, những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý, không có ràng buộc các bên.
Ví dụ: Khi hai bên giao kết hợp đồng mua bá nhà, nếu hợp đồng này vô hiệu thì bên bán không phải giao nhà, bên mua không có quyền được nhận nhà như thỏa thuận trong hợp đồng và không có nghĩa vụ giao tiền cho bên bán.
Khi hợp đồng bị vô hiệu, nếu các bên chưa thực hiện hợp đồng thi không được thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã thực hiện thì sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu của hợp đông, các bên hoàn trả nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, có những trường hợp các bên đã thực hiện hợp đồng, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì đối tượng hợp đồng, giấy tờ… mà các bên trao cho nhau theo thỏa thuận trong hợp đồng đã có những biến động, không còn tồn tại hoặc có những biến đổi không thể khôi phục lại tình trạng ban đầu để hoàn trả. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2 điều 131 Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì sẽ xác định giá trị của hiện vật đó và hoàn trả bằng tiền. Việc Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” là quy định có tính chất nguyên tắc chung, phải hiểu nó một cách linh hoạt chứ không nên áp dụng một cách máy móc, việc xử lý hậu quả của hợp đồng phải phù hợp với tính chất của hợp đồng.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu chỉ phát sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước cơ thẩm quyền hoặc trên cơ sở một quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Cụ thể là khi Toàn án tuyên một hợp đồng vô hiệu thì hậu quả pháp lý hợp đồng bị coi là chưa tồn tại, hay pháp luật không thừa nhận, các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Có thể thấy rằng hợp đồng vô hiệu phát sinh những hậu quả sau:
Thứ nhất, về giá trị pháp lý của hợp đồng vô hiệu: Hợp đồng vô hiệu có những hệ quả sau đây: Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ các bên kể từ thời điểm giao kết; Việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu sẽ làm cho hợp đồng không có giá trị pháp lý kể từ thời điểm giao kết, cho dù hợp đồng đó đã được thực hiện trên thực tế hay chưa.
Thứ hai, về mặt lợi ích vật chất của hợp đồng vô hiệu: Khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng bên đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì mà các bên đã nhận thông qua thoả thuận của hợp đồng đó, nếu trong trường hợp khi các bên không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qua định khác.
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hợp đồng bị vô hiệu: Khi giao dịch dân sự bị tuyên là vô hiệu, nếu các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì cơ quan Tòa án có trách nhiệm xác định thiệt hại của các bên trong giao dịch dân sự đó. Về nguyên tắc, một bên chỉ phải bồi thường cho bên kia khi có thiệt hại xảy ra, không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường. Các chủ thể là người có lỗi gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy nhiên trên thực tế, có thể tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của hai bên. Trong trường hợp tồn tại lỗi của hai bên làm cho giao dịch dân sự vô hiệu thì phải xác định mức độ lỗi của các bên để thấy được thiệt hại cụ thể để quy trách nhiệm bồi thường tương ứng theo lỗi của mỗi bên. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự bị tuyên vô hiệu không bao gồm việc bồi thường các thiệt hại về tinh thần. Việc bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu không phải là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự.
Thứ tư, xử lý các khoản lợi thu được từ Hợp đồng vô hiệu: Các bên có nghĩa vụ hoàn trả các lợi ích thu được từ hợp đồng vô hiệu. Những hoa lợi, lợi tức thu được từ việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nếu thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu thì chủ sở hữu được nhận lại, trừ các trường hợp cụ thể mà pháp luật có quy định khác.Với quy định của Bộ luật dân sự 2015, việc hoàn trả hoa lợi, lợi tức hay không phụ thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình của bên nhận tài sản cũng như các quy định về hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Thứ năm, quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết hợp đồng: Một hợp đồng được coi là vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập theo quy định của pháp luật. Nếu việc thực hiện hợp đồng mới được xác lập, chưa thực hiện thì các bên không thực hiện. Nếu các bên đang thực hiện thoả thuận trong hợp đồng thì không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Pháp luật dân sự năm 2015 không công nhận và bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng vô hiệu ngay cả khi các bên đã thực hiện xong hợp đồng.
Ngoài ra, cần lưu ý khi xác lập giao dịch có hợp đồng chính, phụ. Trong đó thì hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính. Vì vậy, Khi hợp đồng chính không có hiệu lực thì cũng ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng phụ. Theo đó thì khi hợp đồng chính vô hiệu sẽ làm chấm dứt hợp đồng phụ chứ không phải kéo theo việc làm vô hiệu hợp đồng phụ, khi hợp đồng phụ vô hiệu thì các bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu, còn khi hợp đồng phụ chấm dứt thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ không còn kể từ thời điểm chấm dứt hợp đồng giao dịch giữa các bên, đối với việc khi hợp đồng phụ chấm dứt các bên không phải khôi phục lại tình trạng ban đầu.
3. Xử lý hậu quả khi hợp đồng vô hiệu:
Khi hợp đồng vô hiệu làm phát sinh ra hậu quả pháp lý. Việc xử lý đối với hợp đồng vô hiệu được quy định cụ thể theo điều 131 Bộ Luật Dân sự năm 2015 cụ thể như sau:
Thứ nhất, Khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu thì phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận: Các bên trong hợp đồng vô hiệu cần phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn trả không đúng với hiện trạng tại thời điểm xác lập hợp đồng và hoàn trả lại cho bên kia những gì đã nhận. Cần lưu ý rằng đối với trường hợp bên đã làm hư hỏng, giảm giá trị tài sản thì bên đó cần phải sửa chữa, phục hồi, nâng cấp lại tài sản như ban đầu. Trong trường hợp tài sản đó đã được làm tăng giá trị, bên nhận lại tài sản đã được làm tăng giá trị phải thanh toán thành tiền tương ứng với phần giá trị tài sản tăng thêm cho bên kia theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại: Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng của pháp luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không bao gồm việc bồi thường các thiệt hại về tinh thần đối với người bị thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu không phải là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị vô hiệu: Trong một số trường hợp nhất định, tuy bên có quyền bị vi phạm được yêu cầu cơ quan Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nhưng cơ quan Tòa án có thể xem xét để bảo vệ quyền lợi của người ngay tính được quy định cụ thể tại Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015: Đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ những trường hợp được quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015. Còn trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba sẽ bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa theo quy định của pháp luật hiện hành.
Hợp đồng vô hiệu là một vấn đề pháp lý rất quan trọng. Khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, hậu quả pháp lý của nó ảnh hưởng rất lớn đến các bên tham gia hợp đồng. Do vậy, khi tham gia giao kết hợp đồng các bên cần nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật về các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp hợp đồng sẽ bị vô hiệu để tránh được những hậu quả không mong muốn./.
Lê Tâm