Nghiên cứu, trao đổi
Hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ là loại hợp đồng có toàn bộ nội dung bị vô hiệu, hoặc chỉ có một phần của hợp đồng bị vô hiệu nhưng phần đó lại có nội dung quan trọng nhất, ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ nội dung hợp đồng đó.
Ngay từ thời xa xưa, con người đã sử dụng những giao dịch, thỏa thuận nhằm mục đích để thỏa mãn mọi nhu cầu của mình. Với sự phát triển nhanh chóng của xã hội và để đảm bảo tính pháp lý cho những giao dịch, thỏa thuận đó thì quy định về hợp đồng được ra đời. Trong giao kết và thực hiện hợp đồng nảy sinh ra các trường hợp hợp đồng vô hiệu. Xuất phát từ lý do chủ quan hoặc khách quan mà hợp đồng được ký kết giữa các bên có thể bị vô hiệu. Hiện nay, pháp luật đưa ra rất nhiều các trường hợp khiến cho một hợp đồng bị coi là vô hiệu. Việc quy định như vậy đã đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia giao dịch, tránh những tranh chấp xảy ra. Hợp đồng vô hiệu là một vấn đề pháp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu, hậu quả pháp lý của nó ảnh hưởng rất lớn đến các bên tham gia hợp đồng. Vì vậy, các bên khi giao kết hợp đồng cần đặc biệt quan tâm vấn đề này. Bài viết sau đây tác giả sẽ tập trung làm rõ các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân sự.
1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Khi giao kết hợp đồng, điều đầu tiên và quan trọng mà các bên mong muốn là hợp đồng luôn có hiệu lực và có thể thực thi trên thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà đôi khi hợp đồng có thể bị vô hiệu, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng. Khái niệm về hợp đồng được quy định cụ thể tại điều 385 Bộ Luật Dân sự năm 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Qua khái niệm trên, ta có thể hiểu bản chất của một hợp đồng dân sự được cấu tạo bởi hai yếu tố: Sự thỏa thuận của các bên tham gia giao kết hợp đồng và sự ràng buộc pháp lý giữa họ.
Đối với quy định về hợp đồng vô hiệu, Bộ luật dân sự và những luật khác có liên quan không có giải thích cụ thể về hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, tại điều 122 Bộ Luật Dân sự năm 2015 có quy định “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định cụ thể tại điệu 117 Bộ Luật Dân sự năm 2015: “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.
Từ quy định tại điều 117 Bộ Luật Dân sự năm 2015 có thể xác định giao dịch dân sự vô hiệu khi không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, với các điều kiện cụ thể: chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định; Các trường hợp khác do Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định.
Như vậy, một giao dịch bị coi là vô hiệu nếu không đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên. Về nguyên tắc nếu một giao dịch dân sự không đáp ứng được một trong bốn điều kiện nêu trên thì bị coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Từ quy định về giao dịch dân sự vô hiệu có thế thấy rằng hợp đồng là một trong những loại giao dịch dân sự bên cạnh các ‘hành vi pháp lý đơn phương’ , nên ta có thể áp dụng điều luật này để diễn giải định nghĩa về hợp đồng vô hiệu. Theo đó, ta có thể hiểu: Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên hợp đồng này không có giá trị pháp lý, các bên giao kết hợp đồng sẽ không phát sinh bất cứ quyền và nghĩa vụ với nhau. Hiện nay, theo quy định pháp luật thì hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu một phần hoặc toàn bộ:
Hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ: Hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ là loại hợp đồng có toàn bộ nội dung bị vô hiệu, hoặc chỉ có một phần của hợp đồng bị vô hiệu nhưng phần đó lại có nội dung quan trọng nhất, ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ nội dung hợp đồng đó.
Hợp đồng bị vô hiệu một phần: Hợp đồng vô hiệu một phần là những loại hợp đồng được xác lập mà một phần nội dung của hợp đồng đó bị vô hiệu và không có giá trị pháp lý, đồng thời phần hợp đồng bị vô hiệu không ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng đó. Đối với hợp đồng bị vô hiệu một phần, phần bị vô hiệu sẽ không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, ngoài phần bị vô hiệu đó thì các phần còn lại của hợp đồng không bị ảnh hưởng, vẫn phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đối với phần không bị vô hiệu.
2. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu
2.1.Hợp đồng vô hiệu khi vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (điều 123 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Trước khi đi vào tìm hiểu các quy định của pháp luật Dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì chúng ta cần tìm hiểu điều cấm và đạo đức xã hội được quy định ở đây như thế nào? Do đó, trên cơ sở quy định tại Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì điều cấm của pháp luật được biết đến là những quy định của pháp luật không cho phép một chủ thể nào đó thực hiện những hành vi nhất định. Cũng tại Bộ luật này thì đạo đức xã hội được xác định là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chỉ những tài sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của giao dịch dân sự.
Từ những khái niêm trên thì, những giao dịch dân sự xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó. Vậy nên giao dịch dân sự vi phạm quy định này thì đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch.
2.2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo (điều 124 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định chính là sự thể hiện sự tự nguyện của chủ thể. Tuy nhiên không phải sự tự nguyện nào cưa chủ thể cũng làm phát sinh hậu quả pháp lí. Có những trường hợp bản thân chủ thể hoàn toàn kiểm soát được sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài, không bị tác động của bất cứ yếu tố khách quan nào nhưng cũng không được pháp luật thừa nhận, đó chính là giao dịch dân sự xác lập do sự giả tạo.
Đối với giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, chủ thể hoàn toàn mong muốn sự thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định mặc dù ý chí đó không phải là ý chí đích thực. Do đó, thể hiểu giao dịch dân sự dược xác lập do sự giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định tại điều 124 Bộ Luật Dân sự năm 2015 như sau: “1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
Như vậy, theo quy định trên, có hai loại hợp đồng giả tạo gồm:
- Thứ nhất, giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch khác.
Như vậy, ít nhất trong trường hợp này có hai giao dịch song song tồn tại – đó là giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (giao dịch che giấu, thể hiện ra bên ngoài).
Giao dịch giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác luôn luôn vô hiệu, còn giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp lí. Tuy nhiên nếu giao dịch đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có thể vô hiệu.
- Thứ hai là, giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác lập giao dịch giả tạo. (Ví dụ: Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, A đã kí hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là B để tránh trương hợp ngôi nhà đó có thể bị xử lí đê thực hiện nghĩa vụ của A).
Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập với sự giả tạo. (Ví dụ: A chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho B nhưng nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, A và B đã kí hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.)
2. 3. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (điều 125 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Pháp luật hiện hành quy định hợp đồng được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vô hiệu được quy định tại điều 125 Bộ Luật Dấn sự năm 2015.
Theo đó, khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.
Tuy nhiên, để đảm bảo một số những yêu cầu xã hội liên quan tơi nhóm đối tượng này thì pháp luật dân sự cũng quy định những trường hợp mà Giao dịch dân sự của những đối tượng này không bị vô hiệu, cụ thể:
- Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
- Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
- Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
2.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn (điều 127 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Theo điều 126 Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra quy định về sự nhầm lẫn như sau: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”.
Sự nhầm lẫn xuất phát tự nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác thì khi đó sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối. Để xem xét một cách chính xác có yếu tố nhầm lẫn trong giao dịch dân sự không, ta cần xác định hai khía cạnh: Thứ nhất,ở khía cạnh khách quan, người ta phải đặt một người bình thường vào vị trí của một người tin nhầm để xác định trong hoàn cảnh tương tự, người có nhận thức, đánh giá như thế nào về nội dung của giao dịch. Từ đó đánh giá xem sự tin nhầm đó có phải là vô lí hay khó chấp nhận không. Thứ hai,ở khía cạnh chủ quan, người ta cần xem xét mối quan hệ giữa sự nhầm lẫn của người đó trong mỗi tương quan với khả năng nhận thức, năng lực chuyên môn của người đó. Từ đó đánh giá xem sự tin nhầm của người đó có phải là từ sự cẩu thả sơ suất không? Tuy nhiên trường hợp này có một ngoại lệ là các hợp đồng được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.
2.5.Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (điều 127 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Khi tham gia hợp đồng dân sự, nếu một bên bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự đó là vô hiệu theo Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015. Một người có hành vi lừa dối thì không thể coi là trung thực được. “Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Quy định này của pháp luật là một trong những sự thể hiện của nguyên tắc tự do, tự nguyện giao kết hợp đồng, thể hiện được sự phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn. Hành vi lừa dối của các chủ thể có thể mang tính chủ động (tích cực) hoặc mang tính bị động (tiêu cực). Lừa dối mang tính chủ động khi người lừa dối thực hiện những hành vi tổ chức thực hiện hoặc đồng lõa với việc cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối… làm cho người bị lừa dối nghĩ về sự việc quá lên so với thực tế khách quan. Lừa dối được coi mà tính bị động hay tiêu cực trong trường hợp người lừa dối im lặng không bày tỏ quan điểm của mình về một yếu tố quan trọng của giao dịch nhằm hưởng lợi từ việc người bị lừa dối chấp nhận xác lập giao dịch dân sự. Để xem xét một hành vi có phải sự lừa dối trong giao kết hợp đồng hay không, người ta căn cứ vào các yếu tố sau: Một là, phải có sự cố ý đưa ra thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên. Hai là, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó. Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch đó do một bên đưa ra trong giao kết hợp đồng.“Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình”./
Đe dọa gồm hai điều kiện:
- Về mặt khách quan : hành vi đe dọa phải là hành vi do một bên hoặc người thứ ba gây ra
- Về mặt chủ quan: sự đe dọa có tính chất quyết định khiến bên bị đe dọa buộc phải xác lập thay đổi hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự mà không thể có cách lựa chọn nào tốt hơn.
Như vậy hành vi đe dọa trở thành căn cứ xác định một giao dịch dân sự vô hiệu cần có các điều kiện sau:
- Bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích là buộc chủ thể phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc với mình hoặc xác lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dọa mong muốn;
- Hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia sợ hãi, tức là bản thân bên bị đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không có một sự lựa chộn nào khác;
- Chủ thể bị đe đọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng cũng có thể là người khác;
- Hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà hành vi đó hướng tới, tức là bên bị đe dọa mới chỉ sợ hãi về hậu quả của sự đe dọa có thể xảy ra.
2.6. Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (điều 128 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Hợp đồng xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Là trường hợp bản thân của chủ thể - người xác lập giao dịch dân sự có năng lực pháp luật dân sự nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà đúng vào thời điểm xác lập giao dịch dân sự thì họ lại không nhận thức được hành vi của mình. Việc không nhận thức được hành vi của mình được biểu hiện ra bên ngoài thành những điều thiếu lô-gic mà trong điều kiện bình thường một người nhận thức bình thường sẽ không hành động như vậy. Nội dung này được quy định cụ thể tại điều 128 Bộ Luật Dân sự năm 2015: “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu”.
Ví dụ: Xác lập hợp đồng trong lúc say rượu.
2.7. Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (điều 129 Bộ Luật Dân sự năm 2015)
Hợp đồng được giao kết dựa trên cơ sở của tự do ý chí làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, nhà làm luật đôi khi cũng đòi hỏi hợp đồng phải tuân thủ một hình thức nhất định bởi những lý do xuất phát từ chủ thể, đối tượng hay từ giá trị của hợp đồng. Bài viết này bàn luận các vấn đề xung quanh quy định của pháp luật về trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức.
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng là tự do ý chí, ý chí có thể được bày tỏ dưới nhiều hình thức như văn bản, lời nói, hành vi cụ thể hoặc thậm chí là sự im lặng trong một số trường hợp. Song để bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ hợp đồng cũng như góp phần tăng cường sự quản lý của nhà nước, tùy theo tính chất của đối tượng hợp đồng mà pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức hợp đồng. Với những trường hợp pháp luật quy định hợp đồng giao kết phải tuân theo những hình thức nhất định, nếu không các bên tham gia giao kết sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi. Cụ thể, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu…”; “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu… cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
2.8. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được
Ngay từ khi giao kết, nếu hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu theo Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015. Trong trường hợp này, trách nhiệm của các bên được xác định như sau: Nếu khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. Nếu hợp đồng có nhiều đối tượng thì chỉ vô hiệu phần đối tượng không thể thực hiện được, những phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
Khi các bên tham gia hợp đồng dân sự mà bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu được xác định dưới góc độ pháp lý không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Ngoài ra khi hợp đồng dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nhưng không phải hợp đồng dân sự nào cũng có thể hoàng trả lại cho nhau những gì đã mất vậy nếu khi ở trong một giao dịch dân sự vô hiệu mà trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Không những thế mà theo quy định của Bộ luật này đối với bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Xuất phát từ mục đích và của hợp đồng cũng như những hậu quả pháp lý khi hợp đồng dân sự vô hiệu các bên tham gia giao kết hợp đồng cần nghiên cứu các quy định của pháp luật./.
Lê Tâm