HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Mức phạt đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
Ngày đăng 13/01/2021 | 21:12  | Lượt xem: 1203

Năm 2010, em gái tôi đăng ký kết hôn với anh P và sinh được hai người con (01  trai và 01 gái). Sau thời gian chung sống hạnh phúc, kinh tế gia đình ổn định thì em gái tôi phát hiện chồng mình ngoại tình,đang chung sống với người phụ nữ khác trong một tòa nhà chung cư. Đề nghị cho tôi biết hành vi của anh P có bị xử lý như thế nào?

 

Trả lời:

* Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.

* Điều 59 Nghị định số 82/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng bị xử phạt như sau:

“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

b) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;

c) Cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn;

d) Lợi dụng việc kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình;

đ) Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.

3. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm d và đ khoản 2 nêu trên”.

Bên cạnh đó, tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định cụ thể tại Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

"1- Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó".

Như vậy, đối chiếu với quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 59 Nghị định số 82/NĐ-CP ngày 15/7/2020 nêu trên, hành vi chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ của anh P sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Trong trường hợp nếu hành vi đó nghiêm trọng và đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 182 Bộ Luật hình sự năm 2015.