HỘ TỊCH - QUỐC TỊCH

Khai sinh cho con khi bố mẹ chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn
Ngày đăng 27/09/2022 | 19:24  | Lượt xem: 452

Con giai nhà hàng xóm và người yêu lỡ dính bầu, nhưng vì cả hai đều chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn nên chưa thể tổ chức đám cưới. Xin hỏi các anh chị, cháu bế khi sinh ra có được đăng ký khai sinh ngay hay phải chờ khi bố mẹ đủ tuổi mới có thể làm thủ tục này cho cháu.

Trường hợp được đăng ký kết hôn thì có thể khai họ của cháu theo họ mẹ hay không?

Trả lời

Theo Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016, “Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật”.

Quyền được khai sinh, khai tử cũng được quy định tại Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

“1. Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh.

2. Cá nhân chết phải được khai tử.

3. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì không phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu.

4. Việc khai sinh, khai tử do pháp luật về hộ tịch quy định”.

Căn cứ các quy định nêu trên, cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh mà không phụ thuộc vào bất kỳ tình trạng pháp lý nào khác, bao gồm cả tình trạng hôn nhân, độ tuổi của bố mẹ. Do đó, mặc dù bố mẹ chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn, nhưng cháu bé vẫn có quyền được đăng ký khai sinh.

Thủ tục đăng ký khai sinh được quy định tại Điều 16 Luật Hộ tịch năm 2014. Đó là:

“1. Người đi đăng ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp không có giấy chứng sinh thì nộp văn bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu không có người làm chứng thì phải có giấy cam đoan về việc sinh; trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có biên bản xác nhận việc trẻ bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập; trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai hộ theo quy định pháp luật.

2. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai sinh theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân.

Công chức tư pháp - hộ tịch và người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.

3. Chính phủ quy định chi tiết việc đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em chưa xác định được cha, mẹ, trẻ em sinh ra do mang thai hộ; việc xác định quê quán của trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em chưa xác định được cha, mẹ”.

Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ cháu có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho cháu.

Theo điểm a khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ, “Họ, chữ đệm, tên và dân tộc của trẻ em được xác định theo thỏa thuận của cha, mẹ theo quy định của pháp luật dân sự và được thể hiện trong Tờ khai đăng ký khai sinh; trường hợp cha, mẹ không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được, thì xác định theo tập quán”.

Cho nên, về nguyên tắc cha mẹ cháu có thể thỏa thuận khai trên tờ khai đăng ký khai sinh cho con lấy họ của cha hoặc của mẹ đều đúng quy định của pháp luật.

Hùng Phi